Độc quyền là gì là một trong những từ khóa được tìm kiếm nhiều nhất trên google về chủ đề độc quyền là gì. Trong bài viết này, tencongty.com.vn sẽ viết bài Độc quyền là gì? Hướng dẫn thủ tục đăng ký độc quyền của công ty
Độc quyền là gì?
(VNF) – Cùng VietnamFinance nghiên cứu Độc quyền (bán) (monopoly, monopolist) là gì?

Độc quyền (bán) (monopoly, monopolist) là loại cấu trúc thị trường được đặc trưng.
Độc quyền (bán) (monopoly, monopolist) là loại cấu trúc thị trường được điểm đặc biệt bởi:
(1) Một người bán , nhiều người mua, tức thị trường chỉ có một nhà cung cấp sale cho rất không ít người mua nhỏ dại, hoạt động độc lập với nhau;
Xem thêm: Hướng dẫn đăng ký nhãn hiệu độc quyền mới nhất 2020
(2) không có hàng hóa thay thế, có nghĩa là không tồn tại những món đồ thay thế gần gũi cho hàng hóa của nhà độc quyền (hệ số co giãn chéo của nhu cầu bằng 0); ,
(3) những doanh nghiệp khác chẳng thể gia nhập thị trường, tức hàng rào gia nhập nghiệm trọng đến mức không hề có công ty mới nào có khả năng gia nhập thị trường.
trong mô hình tĩnh về thị trường độc quyền, nhà độc quyền ở vào vị thế có thể quyết định giá thị trường. tuy vậy, khác với nhà sản xuất cạnh tranh hoàn hảo, nhà độc quyền có đường doanh thu cận biên và bình quân khác nhau. Nhà độc quyền đứng trước đường cầu dốc xuống (D tại hình a) , vì thế khi bán thêm sản lượng, anh ta phải bán với giá thấp hơn giá mà người mua sẵn sàng trả cho những đơn vị sản phẩm sản xuất trước đó. Theo một cách khác, khi nhà độc quyền tăng sản lượng, nó phải giảm đơn giá sản phẩm. cũng giống như những công ty cạnh tranh không tỳ vết, mục đích của nhà độc quyền là tối ưu hóa lợi nhuận , anh ta có đủ thông tin về tiền bạc và nhu cầu. vì lẽ đó, nhà độc quyền quyết định sản xuất một kết hợp sản lượng – giá cả giúp cho tiền bạc cận biên và doanh thu cận biên bằng nhau. Hình b chỉ ra trạng thái cân bằng ngắn hạn của nhà độc quyền. Nhà độc quyền cung ứng tại Qc trong mức giá Pc.
trong mức giá cân bằng, nhà độc quyền thu được lợi nhuận trên mức bình thường hay. Khác với tình huống cạnh tranh hoàn hảo, trong đó có sự gia nhập không bị cản trở, hàng rào gia nhập trong thị trường độc quyền được giả định là lớn hơn đến mức thị trường hoàn toàn đóng cửa đối với các nhà cung cấp mới. những nguồn tiềm lực sản xuất không có khả năng chuyển vào thị trường này , kết quả là nhà độc quyền tiếp tục thu được lợi nhuận trên mức bình thường hay trong lâu dài cho đến khi có những điều chỉnh căn bản tại điều kiện cung cầu. Lý thuyết về thị trường dự báo rằng, với điều khiếu nại tiền bạc và nhu cầu hệt nhau nhau, thị trường độc quyền gây ra giá cao hơn , sản lượng thấp hơn so với thị trường cạnh tranh không tỳ vết.
tại mô hình tĩnh về thị trường độc quyềnvà giả định căn bản là chi phí sản xuất tăng khi sản lượng tương đối thấp. Hàm ý của giả định này là các doanh nghiệp đạt tới trạng thái cân bằng ở quy mô hoạt động kinh doanh tương đối bé dại so với thị trường. tuy vậy, bây giờ chúng ta giả định các bước sản xuất trong một ngành được đặc trưng bởi kinh tế quy mô đáng kể. nghĩa là, các công ty cá biệt có thể tiếp tục giảm đơn phí (chi phí đơn vị) bằng việc sản xuất lượng hàng lớn hơn.
Xem thêm: Hướng dẫn thủ tục đăng ký kinh doanh hộ gia đình mới nhất được ban hành
Chúng ta có khả năng minh họa việc làm này bằng cách giả định rằng một ngành cạnh tranh hoàn hảo bị nhà độc quyền xâm chiếm. rõ ràng tại trường hợp như vậy, chi phí không bị tác động bởi quy mô kinh doanh. Hình c minh họa cho tình huống trong số đó việc cắt giảm đơn phí do kinh tế quy mô (thu được từ việc chỉ có một doanh nghiệp duy nhất) xây dựng điều khiếu nại giúp tăng sản lượng lên mức cao hơn va giảm giá xuống mức thấp hơn thị trường cạnh tranh không tỳ vết lúc đầu. Sự cắt giảm tiền bạc nhờ độc quyền hóa đẩy đường chi phí cận biên của nhà độc quyền (MCm) dịch chuyển sang phía phải đường cung thuở đầu (Spv) cho nên sản lượng được tạo ra nhiều hơn (Qm) tại mức giá thấp hơn (Pm). Chúng ta tiếp tục giả định tiền bạc cận biên tăng tại một khoảng biến thiên nhất định của sản lượng.
Theo thời gian, kỳ vọng này phát sinh từ khái niệm cho rằng tại một quy mô nào đó, kinh tế quy mô bị vắt kiệt và tính phi kinh tế quy mô khởi đầu phát huy tác dụng. Tính phi kinh tế quy mô thường hay gắn với những khó khăn về quản lý , tài năng điều hành hiện hữu ở các tổ chức lớn, khó khăn. tuy nhiên, càng ngày có những bằng chứng cho thấy đường tiền của bình quân lâu dài (và đường MC) của nhiều ngành sử dụng nhiều tư bản có hình chữ L. trong những ngành này, chính tổng mức cầu và tỷ phần của mỗi doanh nghiệp, chứ không phải các xem xét về tiền bạc hạn chế quy mô của nó. Do vậy, nó có khả năng tăng trưởng , đạt tới một mức sản lượng tối ưu, sau đấy không thể mở bao la sản xuất hơn nữa nếu như không muốn giảm lợi nhuận hoặc chịu thua lỗ. nhưng trong khi làm như vậy, nó có thể lớn đến mức sở hữu sức mạnh để quyết định giá cả thị trường.
Người ta chẳng thể phủ nhận rằng nhà độc quyền có thể tiếp tục tăng sản lượng và giảm giá nếu nó không tìm bí quyết tối đa hóa lợi nhuận. Song tình huống này không đơn giản là hậu quả của sự quy trở lại cấu trúc thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Điều xảy ra ở đây không đơn giản là trong thời gian tìm kiếm địa vị tối ưu để thu lợi nhuận, công ty từ bỏ địa vị là một đối thủ cạnh tranh nhỏ dại nhoi. Nó không nhất thiết phải làm như vậy thông qua cố gắng có hệ thống để chi phối thị trường. trái lại, chính điều khiếu nại tiền của của thị trường đã cản trở sự phát triển này. trong những ngành như vậy, những công ty bé dại và vừa chẳng thể sống sót được. hơn nữa, nếu như đơn phí thấp hơn khi sản lượng cao hơn, thì công ty lớn là một thực thể tốt hơn về mặt kỹ thuật.
Hình Độc quyền.
Như vậy, khi tồn tại hiệu quả quy mô ở mức đáng kể, thì sự cạnh tranh nguyên tử (tức của những doanh nghiệp nhỏ) trở thành không khả thi về mặt kỹ thuật , không đáng mơ ước nếu như xét trên giác độ hiệu quả. Khi chứng minh cho tính tốt nhất của cạnh tranh, người ta đã ngầm phủ định phương tiện phức tạp này.
cách phân tích phát triển trên đây cũng bỏ lỡ những phương diện động của hệ thống thị trường. Theo một vài nhà kinh tế có tiếng (ví dụ Schempeter), những hoàn cảnh tốt lên mạnh mẽ phúc lợi của người tiêu dùng phần lớn đều là kết quả của sự đổi mới công nghệ. chủ đạo sự tăng trưởng của các nguồn lực, quá trình tăng trưởng kỹ thuật , hàng hóa mới tại lâu dài, chứ chẳng phải những điều chỉnh ngắn hạn, sản sinh ra mức sản lượng tối ưu thu được từ một đầu vào cố định cho trước. Như vậy, những yếu tố của cạnh tranh độc quyền đóng vai trò là tiền đề , người bảo vệ cho các cố gắng đổi mới, canh tân. các doanh nghiệp cạnh tranh không tỳ vết bảo đảm có động cơ dùng giải pháp, kỹ thuật sản hiện diện có một bí quyết có hiệu quả nhất, vì đây chính là điều kiện không thể thiếu cho sự sống còn của họ. tuy nhiên sự bất lực của họ tại việc đạt được lợi nhuận trên mức bình thường hay vừa tránh nguồn tiềm lực, vừa tránh động cơ phát triển công nghệ mới của họ.
ngược lại, nhà độc quyền thuần túy kiếm được lợi nhuận trên mức bình thường có nhiều nguồn tài lực hơn để thúc đẩy văn minh kỹ thuật, nhưng có động cơ yếu đuối tại việc đổi mới do không hề có sự cạnh tranh thật sự. Song hiện đại công nghệ là một phương tiện để cắt giảm chi phí , tăng lợi nhuận dài hạn do có hàng rào cản trở sự gia nhập thị trường. thêm nữa, bản thân sự hơn hẳn về kỹ thuật là một công cụ để nhà độc quyền phản kháng lại sự gia nhập. vì lẽ đó, nhà độc quyền phải phụ thuộc tiến bộ công nghệ để duy trì địa vị độc tôn của mình.
Schumpeter là một trong các học giả biện hộ mãnh liệt nhất khái niệm cho rằng ngành bị chi phối bởi các nhân tố độc quyền có thể dùng phương pháp sản xuất ưu việt hơn những ngành cạnh tranh không tỳ vết. Khi so sánh thị trường độc quyền , thiểu quyền với thị trường cạnh tranh không tỳ vết bằng việc giả định công nghệ không đổi, không tính tới thực tế là sự thay đổi quy trình sản xuất , hàng hóa thường tích tụ những công ty độc quyền , thiểu quyền lớn, người ta đã bình chọn quá thấp đóng góp về mặt làng hội của những thị trường này.
Hình c minh họa cho luận điểm gây nhiều tranh cãi của Schumpeter. Thị trường cạnh tranh sản xuất sản lượng Qpc, điểm có tiền của cận biên ngắn hạn bằng giá cả. nếu như ngành này được độc quyền hóa, người ta thường hay dự kiến giá cả sẽ tăng lên Pm1 , sản lượng giảm xuống chỉ còn Qm1. tuy nhiên, nếu nhà độc quyền tại ngành này áp dụng công nghệ mới hạn chế tiền của, tất cả đường tiền bạc cận biên có thể dịch chuyển xuống phía dưới , nhà độc quyền sản xuất lượn sản phẩm nhiều hơn (Qm) và bán với giá thấp hơn (Pm) so với ngành cạnh tranh ban đầu, dù rằng nhà độc quyền khai thác hết sức mạnh thị trường của mình.
dĩ nhiên, thôn hội có thể bị tổn thất kể cả khi nhà độc quyền thay đổi. các mối lợi do đổi mới đem tới có thể không bằng tiền của do sự khai thác của nhà độc quyền dẫn tới.
(Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, đại học Kinh tế Quốc dân)
Nguồn: https://vietnamfinance.vn/