Giá trị cổ đông là gì là một trong những từ khóa được tìm kiếm nhiều nhất trên google về chủ đề giá trị cổ đông là gì. Trong bài viết này, tencongty.com.vn sẽ viết bài Giá trị cổ đông là gì? Hướng dẫn 10 nguyên tắt vàng để tạo giá trị cổ đông
Mục lục
Phép tắc 1-Đừng quan sát cũng như quản lý thu nhập hoặc chỉ dẫn thu nhập.
những công ty mà chẳng thể bắt thu thập quy tắc đầu tiên của giá trị cổ đông hầu như bảo đảm sẽ không thể theo dõi đầy đủ những cái gì diễn ra. Thật không may, điều này loại trừ hầu như các tập đoàn bởi vì đa phần tổng cộng các công ty đại chúng chơi trò chơi thu nhập như hy vọng. Một chiết suất Viện Đầu tư Quan hệ đất nước năm 2006 cho chúng ta thấy 66% tại tổng số 654 doanh nghiệp được thăm dò bổ sung hướng dẫn lợi nhuận thường xuyên cho những nhà phân tích phố Wall. Một cuộc xem xét đối chiếu năm 2005 trên 401 giám đốc điều hành tài chính của John Graham của Đại Học Duke và Campbell R. Harvey từ đại học Shivaram Rajgopal ở Washington, cho thấy rằng những doanh nghiệp quản lý thu nhập với nhiều biện pháp hơn là chỉ dựa vào những mánh lới kế toán: 80% số người được hỏi nói rằng họ sẽ giảm giá trị từ chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển, quảng cáo, bảo trì, , thuê nhân công nhằm chiều lòng thu nhập chuẩn. Hơn một nửa những nhà quản trị có khả năng trì hoãn một dự án mới thậm chí nếu nó kéo theo giá trị hy sinh.
Xem thêm: So sánh công ty TNHH và công ty cổ phần có gì khá
Có gì là xấu khi tích tụ thu nhập không? trước tiên, dòng dưới cùng của nhân viên kế toán cho thấy chẳng hề giá trị của một công ty hay sự điều chỉnh về giá trị của nó so sánh với kỳ báo cáo. thứ hai, tổ chức thỏa hiệp giá trị khi họ đầu tư ở mức giá thấp hơn chi phí vốn (đầu tư quá mức) hoặc bỏ vốn đầu tư vào các cơ hội để sản sinh ra giá trị (thiếu đầu tư) trong một nỗ lực để tăng lợi nhuận ngắn hạn. Thứ ba, việc thực hành báo cáo thu nhập thông qua các quyết định điều hành giá trị cuối cùng cũng nắm kịp với những công ty. các nhân tố không còn có thể đáp ứng mong đợi của các người đầu tư sau cùng phá hủy một phần đáng kể giá trị thị trường của họ. WorldCom, Enron, và Nortel Networks là những chẳng hạn như điển hình.
Quy tắc 2 đưa rõ ra quyết định kế hoạch tối ưu hóa giá trị kỳ vọng, thậm chí trong thời điểm giảm lợi nhuận trong ngắn hạn.
những doanh nghiệp quan sát cũng như quản lý thu nhập gần như bị ràng buộc để phá vỡ phép tắc thứ 2 này. Thật vậy, hầu hết những doanh nghiệp đánh giá , so sánh những quyết định chiến lược về các ảnh hưởng ước tính trên thu nhập báo cáo khi họ cần tính toán những giá trị tăng cường dự kiến của những luồng tiền tại tương lai để thay thế. Việc phân tích kế hoạch của những đơn vị điều hành của một công ty nên chiều lòng được nội dung cho ba vấn đề: Thứ nhất, chiến lược thay thế ảnh hưởng đến giá trị như thế nào? thứ 2, chiến lược nhất nào có khả năng sản sinh ra giá trị lớn nhất? Thứ ba, đối với những chiến lược được chọn lựa, cấp độ nhạy cảm là như thế nào giá trị của các kịch bản có nhiều khả năng điều chỉnh động lực cạnh tranh và các giả thuyết về vòng đời công nghệ, môi trường pháp lý, và những biến khác có liên quan?
Xem thêm: Hướng dẫn làm thủ tục thành lập công ty cổ phần nhanh nhất
Ở cấp độ doanh nghiệp, các giám đốc điều hành cũng phải giải quyết ba câu hỏi: Liệu rằng bất kỳ các đơn vị hoạt động có đủ tiềm năng xây dựng giá trị để chắc chắn nguồn vốn bổ sung hay không? Đơn vị nào có tiềm năng làm giảm và thế nên nên được tái cấu trúc hoặc thoái vốn? , những kết hợp của các khoản đầu tư vào đơn vị điều hành nào có khả năng sản xuất tổng giá trị nhất?
Luật lệ 3 hành động các mến vụ mua lại mà tối đa hóa giá trị kỳ vọng, thậm chí trong thời điểm giảm lợi nhuận trong ngắn hạn.
những doanh nghiệp thường tạo ra đa phần những giá trị của họ thông qua những hoạt động hằng ngày, tuy nhiên một việc mua lại lớn có khả năng sản sinh ra hoặc tàn phá giá trị nhanh hơn so với bất cứ hoạt động nào khác của công ty. Với mức kỷ lục của tiền mặt , mức nợ tương đối thấp, những doanh nghiệp càng ngày sử dụng việc sáp nhập và mua lại để tốt lên địa điểm cạnh tranh của họ: con số M & A trên toàn toàn cầu vượt quá 2,7 nghìn tỷ $ trong năm 2005.
doanh nghiệp (ngay cả những công ty tuân theo phép tắc 2. ở những khía cạnh khác) và những ngân hàng đầu tư của họ thường hay cân nhắc giá / thu nhập bội và ảnh hưởng trực tiếp của thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS) để bình chọn sự hấp dẫn của một thỏa thuận. Họ coi việc EPS tăng là tin tốt , EPS giảm là tin không tốt. Khi nhắc đến việc trao đổi cổ phiếu sáp nhập, việc tập trung có giới hạn vào EPS đặt ra thêm lỗi lo vào những thiếu sót thu nhập bình thường. bất cứ khi nào giá/ thu nhập của doanh nghiệp mua lại là lớn hơn nhiều so với doanh nghiệp bị bán, EPS tăng. Điều trái lại cũng đúng. nếu giá/ thu nhập của doanh nghiệp mua lại thấp hơn so với công ty bán, thu nhập trên mỗi cổ phiếu giảm. không hề có hoàn cảnh nào EPS cho chúng a biết bất kỳ điều gì về tiềm năng dài hạn của giao dịch để gia tăng giá trị.
Quyết định đúng mực về các giao dịch M & A được dựa trên triển vọng của chúng để tạo ra giá trị, không dựa vào tác động trực tiếp của EPS, và điều này là một nền tảng cho nguyên tắc thứ ba tại việc sản sinh ra giá trị. quan sát cũng như quản lý cần xác định rõ ràng ở đâu, khi nào, và làm cách nào nó có thể hành động tăng hiệu suất thực sự bằng việc ước tính giá trị hiện trong của dòng tiền gia tăng và sau đấy trừ đi phí mua lại.
Hội đồng quản trị hay các nhà điều hành cũng cẩn thận đánh giá các rủi ro mà dự báo có khả năng không xảy ra. Họ nhận ra các thử thách của hội nhập sau sát nhập , khả năng địch thủ cạnh tranh sẽ không đứng yên trong thời gian công ty mua lại cố gắng để tạo ra sự phối hợp với tiền bạc của họ. nếu như khả thi về mặt tài chính, những công ty mua lại tự tin tại việc đạt được sức mạnh tổng hợp lớn hơn phí bảo hiểm để những cổ đông của họ sẽ chẳng phải bỏ bất cứ lợi ích sáp nhập dự kiến nào cho những cổ đông của doanh nghiệp bị bán. nếu như quan sát cũng như quản lý không hứa hẹn chắn liệu thỏa thuận này sẽ sinh ra sức mạnh tổng hợp hay không, nó có thể bảo vệ vốn liếng của mình bằng cách bổ sung cổ phần. điều này hạn chế tổn thất tiềm năng cho những cổ đông của doanh nghiệp mua lại bằng cách làm loãng quyền có được của họ tại doanh nghiệp sau sát nhập.
Nguyên tắc 4 hành động chỉ tài sản tối đa hóa giá trị.
phép tắc thứ tư có sản sinh ra giá trị cho một mức độ mới bởi vì nó dẫn việc xác định mô hình kinh doanh mà các doanh nghiệp giá trị có ý thức sẽ áp dụng. Có hai phần với nguyên tắc này.
đầu tiên, công ty định hướng giá trị thường xuyên theo dõi coi có người mua sẵn sàng trả giá cao ý nghĩa so với giá trị dòng tiền ước tính cho công ty cho những đơn vị kinh doanh, nhãn hiệu, bất động sản, tài sản và có thể tháo rời khác. Một phân tích như vậy rõ ràng là một bãi mìn chủ đạo trị cho những doanh nghiệp đang hoạt động tương đối tốt so với dự hoặc địch thủ cạnh tranh, tuy nhiên rõ rệt là có giá trị hơn tại tay của các người khác. tuy vậy, thất bại tại việc khai thác những thời cơ như vậy trầm trọng có thể làm tổn hại giá trị cổ đông.
Một chẳng hạn như gần đây là Kmart. ESL Investments, một quỹ đầu tư được điều hành bởi Edward Lampert, giành quyền kiểm soát của Kmart với giá trị giao dịch ít hơn 1 tỷ $ khi nó đã được bảo hộ phá sản vào năm 2002 , khi cổ phiếu của nó đã được giao dịch ở mức ít hơn 1 $. Lampert đã có thể thu hồi lại hầu như tất cả đầu tư của mình bằng việc bán các cửa hàng Home Depot và Sears, Roebuck. bên cạnh đó, ông đóng những shop hoạt động yếu đuối xoàng, tích tụ lợi nhuận bằng cách giảm cấp độ chi tiêu vốn , hàng tồn kho, , loại bỏ việc bán hàng truyền thống của Kmart. Đến cuối năm 2003, cổ phiếu được giao dịch ở mức khoảng 3 $; tại năm sau tăng lên 100 $; ,, tại một thỏa thuận công bố vào tháng 11 năm 2004, họ đã mua Sears. Cổ đông cũ của Kmart được hỏi một bí quyết chính đáng tại sao việc quản lý trước đây chẳng thể phục hồi trình độ cũng giống như của doanh nghiệp và nguyên nhân vì sao họ đã phải thanh lý cổ phần của mình với giá quá thấp.
thứ hai, các công ty có khả năng giảm số vốn họ sử dụng và gia tăng giá trị bằng hai cách: tập trung vào các hoạt động giá trị tăng cường cao (như chiết suất, thiết kế , tiếp thị), nơi họ được hưởng lợi thế, bí quyết thứ hai là thuê các công ty bên ngoài để thực thi những hoạt động giá trị tăng cường thấp (như sản xuất) khi các hoạt động này có thể được thực hiện một bí quyết đáng tin cẩn bởi người xung quanh với chi phí thấp hơn. ví dụ về điều àny gồm có Apple Computer, mà iPod được thiết kế ở Cupertino, California, và được sản xuất tại Đài Loan, và các công ty khách sạn như Hilton Hospitality , Marriott International, các công ty quan sát cũng như quản lý khách sạn mà không có được chúng. và sau đó là mô hình kinh doanh của Dell, tập đoàn này làm ít nhất hóa số vốn công ty cần phải đầu tư vào một lực lượng bán hàng và cung cấp, cũng như sự cần thiết phải tiến hành kiểm kê, đầu tư cơ sở sản xuất.
Quy tắc 5. trả lại tiền mặt cho cổ đông khi không có cơ hội sản sinh ra giá trị đáng tin cậy để đầu tư vào kinh doanh.
kể cả các doanh nghiệp mà đưa rõ ra quyết định kế hoạch của mình dựa trên quy tắc sản sinh ra giá trị có thể bị vấn đề khi nói đến các quyết định về cung cấp tiền mặt. Tầm đặc biệt của việc tôn trọng những luật lệ thứ năm là cực kì lớn: Tính đến quý I năm 2006, những doanh nghiệp công nghiệp thuộc thông số S & P 500 có được hơn 643 tỷ $ tiền mặt-một số tiền mà có khả năng tăng trưởng hơn khi những doanh nghiệp tiếp tục tạo ra dòng tiền tự do ở mức kỷ lục.
doanh nghiệp với số lượng tiền mặt lớn và chỉ giới hạn những thời cơ đầu tư trả lại tiền cho các cổ đông thông qua cổ tức , cổ phiếu mua lại. điều này không chỉ bổ sung cho các cổ đông một cơ hội để kiếm được lợi nhuận vượt trội hơn, tuy nhiên nó cũng hạn chế mối nguy hại người quan sát cũng như quản lý sẽ sử dụng tiền mặt dư thừa để tạo ra các khoản đầu tư không tốt- hay có thể nói là không đủ khôn ngoan, các yêu thương vụ mua lại đắt đỏ.
Chỉ vì một doanh nghiệp tham gia vào việc mua lại cổ phiếu, tuy vậy, không có nghĩa là nó làm đúng theo quy tắc này. Nhiều công ty mua lại cổ phần hoàn toàn để tăng EPS, và, cũng giống như tại trường hợp các vụ sáp nhập , mua lại, EPS tăng hoặc giảm không có sự liên quan tới việc liệu việc mua lại có ý nghĩa kinh tế nữa không. Khi một yêu đương vụ làm tăng thông số EPS ngay bây giờ hơn là sản sinh ra giá trị tại việc quyết định mua lại cổ phần, cổ đông của doanh nghiệp bị bán thu lời từ tiền của từ những cổ đông không chào mua nếu cổ phiếu được định mắc tiền được mua lại. quan trọng rộng rãi là những chương trình mua lại mà bù đắp cho việc EPS giảm từ các chương trình lựa chọn cổ phiếu của nhân sự. tại các tình huống như thế này, nhân sự lựa chọn những bài tập, chứ không phải là định giá, chọn lựa số lượng cổ phiếu những doanh nghiệp mua và số tiền nó phải trả.
các doanh nghiệp mua lại cổ phần chỉ khi cổ phiếu của doanh nghiệp đang được giao dịch thấp hơn mức ước tính của những nhà quản lý , không chuẩn bị và sẵn sàng sinh lời dựa vào việc đầu tư vào kinh doanh. các doanh nghiệp mà thực hiện theo hướng dẫn này phục vụ ích lợi của các cổ đông không chào mua cổ phiếu, những người mà nếu việc định giá của nhà quan sát cũng như quản lý là đúng, sẽ kiếm lời được từ tiền của của những cổ đông chào bán cổ phiếu.
Khi cổ phiếu của một doanh nghiệp là đắt , việc đầu tư vào các doanh nghiệp không hề có giá trị tốt tại dài hạn, trả cổ tức e là lựa chọn hàng đầu.
Quy tắc 6. Trao thưởng cho các CEO và giám đốc điều hành cấp cao khác vì đưa lại lợi nhuận dài hạn cao.
các công ty cần khuyến khích trả lương một cách mang lại hiệu quả ở mọi mức độ để tối đa hóa tiềm năng để đạt lợi nhuận cao. nguyên tắc 6 7 , 8 đề ra chỉ dẫn thích hợp cho các cấp quan sát cũng như quản lý từ thấp tới cao. Chúng ta sẽ bắt đầu với các lãnh đạo cấp cao. Như những cái gì tại thực tế, chọn lựa cổ phiếu được chào bán phổ biến như là bằng chứng của một đặc tính giá trị lành mạnh. những tùy chọn chuẩn mực, tuy vậy, là một chiếc xe không tỳ vết cho việc kích thích trong lâu dài hành vi giá trị nâng cao. Thứ nhất, chọn lựa cổ phiếu chuẩn mực là phần thưởng cho năng suất công việc cao. Như những gì đau đớn đã xảy ra tại các năm 1990, trong một thị trường tăng cao, giám đốc điều hành kiếm được lợi nhuận từ việc cổ phiếu tăng giá- thậm chí tăng một bí quyết đáng kể dưới mức tăng của đối thủ cạnh tranh hoặc từ các thị trường rộng lớn. thứ hai, giai đoạn chuyển giao điểm đặc biệt duy trì trong ba hoặc bốn năm, cộng với xu hướng trả tiền sớm của các giám đốc điều hành, tránh đáng kể động lực lâu dài mà các tùy chọn cổ phiếu có khả năng mang lại. sau cùng, khi tùy chọn cổ phiếu là không hề có hy vọng gì, chúng mất đi kỹ năng thúc đẩy. , điều đó xảy ra thường xuyên hơn những gì người xung quanh nghĩ. chẳng hạn như, khoảng một phần ba các tùy chọn cổ phiếu được tổ chức bởi các giám đốc điều hành Hoa Kì đều dưới mức giá cố định khi thị trường đạt đỉnh tại năm 1999. tuy nhiên một số biện pháp- tăng khoản bồi thương bằng tiền mặt, cấp những cổ phiếu bị làm giảm hoặc nhiều xác định hơn, hoặc hạ thấp mức giá của những tùy chọn-là bức xúc của cổ đông không thân thiện.
các công ty có khả năng khắc phục các không đủ sót của tùy chọn cổ phiếu của nhân sự bằng cách áp dụng một tại hai kế hoạch là chiết khấu xác định chỉ mục hoặc chiết khấu chọn lựa nguy cơ vốn cổ phần (DERO). những lựa chọn chỉ mục thưởng những giám đốc điều hành chỉ khi cổ phiếu của doanh nghiệp tốt hơn các chỉ số của những công ty khác-không chỉ giản đơn là bởi vì thị trường đang tăng. Để cung cấp cho nhà quản lý với một động lực để tối đa hóa giá trị, công ty có thể giảm tiền của những lựa chọn chỉ mục để quan sát cũng như quản lý lợi nhuận từ các mức hiệu suất khiêm tốn phía dưới thông số. các doanh nghiệp có thể giải quyết các không đủ sót khác của các từy chọn tiêu chuẩn- giai đoạn cầm giữ cổ phiếu là quá ngắn- bằng việc mở bao la thời gian chuyển giao và yêu cầu các nhà quản trị tích tụ phần ý nghĩa của các cổ phần mà họ có được dựa vào việc hành động xác định của mình.
Đối với các doanh nghiệp chẳng thể phát triển một chỉ số hợp lý, DERO là một lựa chọn phù hợp. Giá của DERO tăng hàng năm vào ngày đáo hạn vào khoảng thời gian thời gian mười năm mà Kho bạc Hoa Kỳ lưu ý việc cộng một phần của phí bảo hiểm rủi ro dự kiến trừ đi những khoản cổ tức trả cho chủ sở hữu của những cổ phiếu căn bản. các người đầu tư vốn cổ phần mong đợi một lợi nhuận tối thiểu gồm có những tỷ lệ rủi ro kết hợp với phần bù rủi ro vốn cổ phần. nhưng mức hiệu năng này có khả năng khiến nhiều giám đốc điều hành giữ những lựa chọn không như tính toán ban đầu. bằng cách kết hợp chỉ một phần nhỏ của phí bảo hiểm rủi ro vốn cổ tức ước vào tỷ lệ tăng trưởng giá cả, ban lãnh đạo đang tấn công cược rằng giá trị được gia tăng bởi quan sát cũng như quản lý sẽ bù đắp các xác định tốn kém. Cổ tức được trích từ giá để loại bỏ các ưu đãi cho các doanh nghiệp để giữ lại cổ tức khi họ không có cơ hội đầu tư tạo ra giá trị.
Quy tắc 7. Thưởng cho những giám đốc điều hành đơn vị vì đã tăng giá trị trong nhiều năm.
trong khi việc lựa chọn cổ phiếu có cấu trúc đúng là có ích cho những giám đốc điều hành của công ty, những người với nhiệm vụ là nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn bộ công ty- và sau cuối là giá cổ phiếu- những xác định như vậy thường không phù hợp để thưởng cho các giám đốc điều hành đơn vị, những người có một sự làm giảm tác động đến hiệu suất tổng thể. Giá cổ phiếu mà giảm vì hiệu suất đáng thất vọng ở các cơ quan khác của công ty có thể trừng trị một cách không công bằng các người điều hành của các đơn vị có hiệu suất làm việc tốt. bên cạnh đó, nếu như một đơn vị hoạt động không xoàng tuy nhiên giá cổ phiếu của công ty tăng do hiệu năng cao của những đơn vị khác, những giám đốc điều hành của đơn vị đấy sẽ được hưởng một vận may bất ngờ chưa. không có trường hợp nào mà những xác định thúc đẩy giám đốc điều hành tạo ra giá trị dài hạn. Chỉ khi các đơn vị điều hành của một công ty thật sự phụ thuộc lẫn nhau thìgiá cổ phiếu có thể trở nên một chỉ số công bình , có ích của hiệu suất hoạt động.
những doanh nghiệp thường sở hữu cả chiến lược khuyến khích hàng năm , lâu dài (thường là ba năm) mà trong đó thưởng cho các giám đốc điều hành vì vượt qua ngưỡng mục tiêu những số liệu tài chủ đạo, chẳng hạn như doanh thu và thu nhập hoạt động, , có nhiều khi cũng là vì đánh bại những mục tiêu phi tài chủ đạo. vấn đề là liên kết tiền thưởng với quá trình lập ngân sách khiến các nhà quan sát cũng như quản lý có ít kỹ năng thực hiện. đặc biệt hơn, các thu nhập bình thường hay và số liệu kế toán khác, nhất là khi chúng được sử dụng như là biện pháp hàng quý và hàng năm, không hề có liên quan một cách đáng tin cây đến dòng tiền lâu dài mà sản sinh ra ra giá trị cổ đông.
Để tạo động lực cho một đơn vị hoạt động, các công ty cần phải tăng trưởng các dữ liệu, chẳng hạn như giá trị nâng cao cổ phần (SVA). Để tính toán SVA, áp dụng kỹ thuật chiết khấu chuẩn mực để dòng tiền hoạt động được thúc đẩy bởi lợi nhuận phát triển doanh thu và điều hành, sau đó trừ đi các khoản đầu tư được thực hiện trong giai đoạn này. Bởi vì SVA được dựa hoàn toàn vào dòng tiền, nó không cho thấy sự sai lệch kế toán, trong số đó cung cấp cho nó một lợi thế rõ rệt so với những biện pháp truyền thống. Để đảm bảo rằng các số liệu thể hiện được hiệu suất dài hạn, những công ty nên mở mênh mông giai đoạn bình chọn hiệu năng tại một chu kỳ ít nhất là ba năm. Sau đó chương trình này có khả năng giữ lại một phần tiền thưởng để trang trải những hoạt động có khả năng kém hiệu quả tại tương lai. bí quyết tiếp cận này giúp bỏ đi sự cần thiết trong việc hành động hai chiến lược bằng cách kết hợp các chiến lược khuyến khích hàng năm và dài hạn thành một kế hoạch duy nhất. Thay vì đặt ngưỡng ngân sách dựa trên bồi thường hay, các doanh nghiệp có thể tăng trưởng những chuẩn xác cho việc cải tiến vượt trội từ năm này sang năm khác, và nghiêm trọng hơn là cả hiệu năng bao quát bởi giá cổ phiếu.
Xem thêm: Cổ phần là gì? Các đặc điểm nổi bậc của công ty cổ phần
Nguyên tắc 8. Thưởng cho quan sát cũng như quản lý cấp trung và nhân viên tuyến đầu vì bổ sung hiệu suất cao trên các trình điều khiển giá trị quan trọng mà có ảnh hưởng một cách trực tiếp.
mặc dầu doanh thu tăng trưởng, lợi nhuận hoạt động , tiền bạc vốn là những thông số tài chính hữu ích để theo dõi hoạt động của bộ phận SVA, chúng là quá rộng để cung cấp chỉ dẫn cho các nhà quan sát cũng như quản lý cấp trung , nhân sự tuyến đầu, những người cần biết những thực hiện cụ thể mà họ cần làm để tăng SVA. Với các biện pháp chi tiết hơn, những công ty có khả năng tăng trưởng các thông số hàng đầu về giá trị, đó là định lượng, vấn đề mà có khả năng dễ dàng thông báo rằng những nhân sự tuyến đầu có thể ảnh hưởng trực tiếp , đáng kể tới giá trị lâu dài của công ty một bí quyết tích cực. chẳng hạn như có khả năng bao gồm thời gian cho ra mắt sản phẩm mới ra thị trường, phần trăm doanh thu nhân viên, phần trăm kéo dài người tiêu dùng, , việc mở cửa kịp thời của những shop mới hoặc cơ sở sản xuất.
Kinh nghiệm cho thấy rằng hầu hết những doanh nghiệp có thể tập trung vào ba đến năm chỉ số hàng đầu , tóm bắt được một phần quan trọng của khả năng tạo giá trị dài hạn của họ. chu trình xác định các chỉ số có thể được thách thức, nhưng việc cải thiện hiệu năng hàng đầu chỉ là một nền tảng để đạt cho được SVA cao, mà lần lượt đáp ứng việc tăng lợi nhuận cổ đông lâu dài.
Nguyên tắc 9 đòi hỏi giám đốc điều hành cấp cao phải chịu nguy cơ về quyền sở hữu như những cái gì những cổ đông làm.
hầu như, xác định cổ phiếu đã không thích hợp với những lợi ích dài hạn của các giám đốc điều hành cấp cao và các cổ đông bởi vì thời gian trước việc rút tiền mặt thường xuyên được chuyển giao. kĩ năng bán cổ phiếu sớm có khả năng tại thực tế khuyến khích họ tích tụ hậu quả thu nhập ngắn hạn hơn là giá trị dài hạn để kích thích giá cổ phiếu hiện trong.
Để căn chỉnh tốt hơn những ích lợi này, nhiều doanh nghiệp đã áp dụng những hướng dẫn có được chứng khoán cho các quản lý cấp cao. Quyền sở hữu tối thiểu thường được thể hiện như một bội số của mức lương căn bản, sau đó được chuyển đổi thanh lịch một số cổ phiếu quy định. chẳng hạn như, chỉ dẫn của eBay đòi hỏi các Giám đốc điều hành có được cổ phiếu trong công ty tương đương với năm lần lương cơ bản hàng năm. Đối với giám đốc điều hành khác, số lượng tương ứng là ba lần tiền lương. các nhà quan sát cũng như quản lý hàng đầu đang tiếp tục yêu cầu giữ lại một tỷ lệ cổ phần dựa vào việc thực hiện những chọn lựa cổ phiếu cho đến khi họ tích lũy số lượng cổ phiếu quy định.
nhưng tại đa phần trường hợp, kế hoạch có được cổ phiếu không thế làm các nhà điều hành chịu mức rủi ro tương tự như cổ đông. Một nguyên nhân là một số công ty tha thứ cho các khoản vay mua chứng khoán khi cổ phiếu xoàng xĩnh hiệu quả, tuyên bố rằng việc bố trí không còn bổ sung một động lực cho quan sát cũng như quản lý hàng đầu. những doanh nghiệp như vậy tạo nên mối nguy hại thể chế hóa một hệ thống cung cấp lương mà đối ngược với tinh thần và mục tiêu của chương trình bồi thường hay. Một lý do khác là những khoản tài trợ hoàn toàn của cổ phiếu bị làm giảm, trong đó tùy chọn với giá 0 $, thường được tính là cổ phiếu đối với sự ưng ý của mức độ sở hữu ít nhất. Tùy chọn cổ phiếu kích thích những lãnh đạo chủ chốt ở lại với doanh nghiệp cho tới khi các sai sót mà thường hay xảy ra tại vòng ba hoặc bốn năm, , họ có khả năng rút tiền từ cổ phiếu của họ. các khoản này sản sinh ra một động lực mãnh liệt cho những CEO , những nhà quan sát cũng như quản lý hàng đầu khác để hoạt động không gây hại, bảo vệ giá trị hiện có, , tránh bị sa thải. Không ngạc nhiên là kế hoạch cổ phiếu bị tránh thường hay được gọi là “trả cho nhịp rung”, thay vì trả tiền cho hiệu suất.
tại một nỗ lực để làm chệch hướng những lời chỉ trích rằng chiến lược cổ phiếu hạn chế là một sự cho đi, nhiều doanh nghiệp chào bán cổ phiếu hiệu suất yêu cầu không chỉ có giám đốc điều hành vẫn còn trong biên chế mà doanh nghiệp cũng phải đạt được mục đích hiệu năng gắn với tăng trưởng EPS, mục đích doanh thu, hoặc khả năng thu lợi nhuận. trong khi cổ phiếu biểu hiện hiệu năng yêu cầu, việc bổ sung giá trị dài hạn thường không đúng với loại hiệu suất thích hợp bởi vì các số liệu thường hay không được liên kết chặt chẽ với giá trị.
các công ty mà đang tìm cách sắp xếp vượt trội hơn ích lợi của giám đốc điều hành , cổ đông cần phải tìm một sự cân bằng hợp lý giữa lợi ích của việc đòi hỏi giám đốc điều hành cấp cao để sở hữu cổ phần có được , những tránh trong thanh khoản và sự nhiều chủng loại của họ. nếu như không có biện pháp khuyến khích dựa trên sự công bình, các giám đốc điều hành có khả năng trở nên quá lo lắng rủi ro thất bại và có khả năng bị sa thải. nếu họ có được quá nhiều vốn, tuy vậy, họ cũng có khả năng làm giảm nguy cơ để bảo tồn giá trị của danh mục đầu tư mà phần đông chưa đa dạng của họ. Mở rộng khoảng thời gian trước khi những giám đốc điều hành có khả năng dỡ bỏ cổ phiếu dựa vào việc thực hiện các tùy chọn , không kể những khoản tài trợ chứng khoán bị giới hạn như cổ phiếu đối với mức độ sở hữu tối thiểu chắc chắn sẽ giúp cân bằng nguy cơ của các giám đốc điều hành , cổ đông.
Quy tắc 10- cung cấp cho những người đầu tư với nội dung giá trị liên quan.
các luật lệ chủ đạo thức thay đổi việc nội dung liên hệ của các người đầu tư, ví dụ các báo cáo tài chính của một công ty. Việc lên tiếng nội dung vượt trội hơn không chỉ cung cấp một liều thuốc giải độc cho sự ám ảnh thu nhập ngắn hạn mà còn làm giảm bớt việc đầu tư không chắc chắn , do đó có thể tránh chi phí vốn , tăng cường giá cổ phiếu.
việc làm này đã được miêu tả tại “Kinh tế học về ngắn hạn-sự ám ảnh hiệu suất” trong năm 2005. Bao gồm:
-tách dòng tiền mặt ra khỏi những khoản trích, cung cấp một cơ sở lịch sử để ước tính dòng tiền mặt của doanh nghiệp , giúp cho các nhà phân tích để bình chọn sự ước tính trích trước một bí quyết hợp lý;
-phân loại các cách trích trước với chu kỳ tiền mặt chuyển đổi vào mức độ trung và cao của sự không hứa hẹn chắn;
-cung cấp một phạm vi và những ước tính nhiều khả năng nhất cho mỗi khoản trích trước thay vì ước tính đơn điểm truyền thống mà bỏ lỡ các biến thiên rộng của các kết quả có thể xảy ra;
-loại trừ những khoản giá trị trích trước không thích hợp, ví dụ khấu hao và khấu trừ;
-đưa ra các cụ thể về các giả định , rủi ro đối với từng mặt hàng trong thời gian trình bày những thông số hoạt động đặc biệt kích thích giá trị của công ty.
Xem thêm: Hương dẫn giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh đầy đủ mới được ban hành 2020
công bố thông tin chi tiết như vậy có khả năng chứng minh sự quá tốn kém? Thực tế là giám đốc điều hành tại những công ty được quan sát cũng như quản lý tốt đã dùng các loại nội dung chứa tại một tuyên bố hoạt động doanh nghiệp. Thật vậy, sự vắng vẻ mặt của những thông tin đấy khiến các cổ đông đặt câu hỏi liệu nhà quan sát cũng như quản lý có cầm nắm tất cả các mặt doanh nghiệp và liệu hội đồng quản trị thực hiện đúng bổn phận giám sát của mình. trong thời điểm hiện nay, những doanh nghiệp có một thời cơ chưa từng có để tạo ra giá trị chỉ giản đơn bằng việc tốt lên chế độ , nội dung của báo cáo công ty.
những phần thưởng , nguy cơ
các câu hỏi quan trọng, tất nhiên, là có nên mười luật lệ phục vụ ích lợi lâu dài của những cổ đông. Đối với hầu hết những doanh nghiệp, câu giải đáp hoàn toàn là có. Chỉ cần bỏ đi sự trì hoãn trong việc sản sinh ra giá trị để đạt được mục tiêu lợi nhuận hàng quý có thể sản sinh ra một sự khác nhau đáng kể. hơn nữa, thoát khỏi trò chơi thu nhập quan sát cũng như quản lý đẩy mạnh doanh thu vào giai đoạn ngày nay , trì hoãn tiền bạc cho thời gian sắp tới sẽ giảm nguy cơ rằng qua thời gian một công ty sẽ không thể chiều lòng mong đợi của thị trường , kích hoạt một cuộc khủng hoảng trong nội bộ nó. nhưng phần thưởng thực sự đến trong sự khác nhau mà một cổ đông thật sư tạo ra cho kế hoạch tăng trưởng lâu dài của công ty.
Đối với hầu như các tổ chức, phát triển sản sinh ra giá trị là sự thách thức đối vớichiến lược, , để thành công, các công ty có thể trong việc tăng trưởng cái mới, thậm chí có thể tác động xấu tới công việc kinh doanh. đây là nguyên nhân vì sao. phần đông giá cổ phiếu của một công ty cụ thể phản ánh kỳ vọng về sự phát triển của các công ty ngày nay. nếu như công ty phục vụ được các kỳ vọng, cổ đông sẽ chỉ kiếm được một khoản lợi nhận bình thường. tuy vậy, để mang lại lợi nhuận vượt trội tại dài hạn- mà đó là để phát triển giá cổ phiếu nhanh hơn so sánh với giá cổ phiếu của địch thủ cạnh tranh- những nhà quản lý hoặc phải liên tục vượt qua mong đợi của thị trường của các doanh nghiệp hiện tại hoặc phát triển các doanh nghiệp sản sinh ra giá trị mới. Nó gần như không thể liên tục tấn công bại các kỳ vọng cho những doanh nghiệp hiện nay, bởi vì nếu như bạn làm thế, nhà đầu tư chỉ giản đơn là tăng cường thanh thông số. vì thế, cách hợp lý độc nhất để đem tới lợi nhuận cao tại lâu dài là tập trung vào các cơ hội kinh doanh mới. (Tất nhiên, nếu như giá cổ phiếu của một doanh nghiệp đã phản ánh kỳ vọng của những doanh nghiệp mới- nó có thể làm việc đấy nếu quản lý có một hồ sơ theo dõi việc bổ sung giá trị tăng trưởng- thì nhiệm vụ tạo ra siêu lợi nhuận trở nên khó khăn; đấy là tất cả những cái gì mà các nhà quan sát cũng như quản lý có thể làm để chiều lòng các sự mong đợi).
các công ty tích tụ các biện pháp hiệu suất ngắn hạn đã cam chịu thất bại trong việc cung cấp một chiến lược phát triển sản sinh ra giá trị bởi vì họ bị buộc phải tập trung vào các công ty hiện trong hơn là vào việc tăng trưởng các cái mới trong lâu dài. Khi những nhà quan sát cũng như quản lý sử dụng quá nhiều thời gian vào kinh doanh cốt lõi, họ kết thúc mà không hề có những thời cơ mới được sản sinh ra. và khi họ gặp mặt rắc rối-và chắc chắn là như vậy-họ hầu như không hề có lựa chọn nào ngoài việc cố gắng kéo một con thỏ ra khỏi chiếc mũ. Sự năng động của sự thất bại này đã được mô tả cực kì chính xác bởi Clay Christensen , Michael Raynor tại cuốn sách giải pháp của nhà đổi mới: tạo , duy trì tăng trưởng thành công (Harvard Business School Press, 2003). trong đó, nó diễn ra như thế này:
-Mặc dù tăng chậm lại và lợi nhuận tại kinh doanh cốt lõi của công ty bị xói mòn, quan sát cũng như quản lý tiếp tục tập trung vào việc phát triển nó khi công ty đưa ra sự tăng trưởng mới.
-Cuối cùng, những khoản đầu tư trong lõi không để lại có khả năng sản sinh ra tăng trưởng như các người đầu tư mong đợi, và giá cổ phiếu bị ảnh hưởng.
-Để khôi phục lại giá chứng khoán, nhà quan sát cũng như quản lý thông báo một mục đích tăng trưởng mà vượt quá xa những gì cốt lõi có khả năng bổ sung, do đó recommend một khoảng cách tăng trưởng lớn hơn.
-Đối mặt với khoảng cách này, doanh nghiệp giới hạn tài trợ cho các dự án hứa hẹn với vận tốc phát triển nhanh. Theo đấy, doanh nghiệp từ chối tài trợ cho những doanh nghiệp phát triển mới mà cuối cùng có thể thúc đẩy sự mở rộng của doanh nghiệp tuy nhiên chẳng thể đủ lớn một cách nhanh chóng.
-Quản lý sau đó trả lời với các dự án quá lạc quan để đạt được tài trợ cho các sáng kiến tại các thị trường lớn hiện tại mà có tiềm năng tạo ra đủ doanh thu một bí quyết nhanh chóng, đủ để đáp ứng kỳ vọng của nhà đầu tư.
-Để đáp ứng được thời gian biểu cho việc triển khai kế hoạch, doanh nghiệp đặt một cấu trúc chi phí khá lớn trước khi thực hiện bất cứ doanh thu.
-Khi doanh thu giảm , thua lỗ kéo dài, thị trường lại đẩy giá cổ phiếu xuống và một CEO mới được thêm vào để chống đỡ nó lên.
-Thấy rằng sự tăng trưởng của việc kinh doanh mới là hầu như không có, Giám đốc điều hành nỗ lực để nhanh chóng phòng ngừa thiệt hại bằng việc phê duyệt chỉ chi phí mà gia tăng cốt lõi trưởng thành.
-Công ty hiện đã hoạt động đủ một chu kì , đã mất đi giá trị của cổ đông lớn.
những doanh nghiệp mà thu thập giá trị cổ đông làm giảm mô hình tự củng cố hành vi này. Bởi vì họ không kết thúc ở những kỳ vọng ngắn hạn của thị trường, họ không chờ cho cốt lõi đi trước thời gian họ đầu tư vào các thời cơ tăng trưởng mới. Họ đang có, thế nên, nhiều kỹ năng trở thành động lực trước tiên tại một thị trường và dựng lên những rào cản lớn đối với nhập cảnh thông qua quy mô hoặc những nền kinh tế, hiệu ứng mạng tích cực, hoặc lợi thế về tiếng tăm. Đội ngũ quản lý của họ đang Nhìn về phía trước và nhạy cảm với các thời cơ chiến lược. Theo thời gian, họ bắt cầm thời cơ một bí quyết tốt hơn so với những địch thủ để đạt cho được lợi thế cạnh tranh.
dù rằng ứng dụng mười quy tắc sẽ tốt lên triển vọng lâu dài cho nhiều doanh nghiệp, một vài vẫn còn sẽ gặp vấn đề nếu những người đầu tư vẫn còn gắn bó với thu nhập trong ngắn hạn, bởi vì tại những tình huống nhất định, giá cổ phiếu yếu ớt kém thật sự có thể tác động đến hiệu suất hoạt động. mối nguy hại là đặc biệt trầm trọng đối với những công khởi nghiệp công nghệ cao, mà tùy thuộc rất nhiều vào giá chứng khoán lành mạnh để tài trợ cho sự tăng trưởng và gửi tín hiệu tích cực cho nhân viên, khách hàng , nhà sản xuất. Khi giá cổ phiếu đang không tích cực, việc bán cổ phiếu mới sẽ hoặc làm loãng cổ phần các cổ đông hiện tại hoặc trong một vài trường hợp, giúp cho các công ty trở nên không hấp dẫn đối với các nhà đầu tư tiềm năng. Như một hệ quả, nhà quản lý có khả năng phải hoãn hoặc huỷ bỏ kế hoạch tăng trưởng sản sinh ra giá trị của nó. Sau đấy, những người đầu tư nhận thức được tình hình, giá cổ phiếu tiếp tục trượt, có khả năng dẫn đến sự phá sản.
những công ty có số vốn làm giảm cũng có thể dễ bị tổn thương, đặc biệt là nếu thị trường lao động có tính ngặt nghèo, người sử dụng rất ít, hoặc các nhà cung cấp quan trọng mạnh mẽ. Một giá cổ phiếu thấp có nghĩa là những tổ chức này chẳng thể cung cấp các lựa chọn chứng khoán với triển vọng đáng tin cẩn hoặc tăng làm giảm cổ phần, vấn đề mà làm cho việc thú vị , giữ chân những khả năng mà sự hiểu biết, ý tưởng , kĩ năng đã ngày càng trở nên một nguồn chủ đạo trị trở thành khó khăn. Từ quan niệm của người tiêu dùng, định giá thấp tăng nghi ngại về sức mạnh của tính cạnh tranh và tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng giống như khả năng trong việc tiếp tục tạo ra sản phẩm chất lượng cao, tiên tiến , đáng tin yêu. những nhà cung cấp , nhà quản lý phân phối cũng có khả năng bức xúc bằng việc cung cấp các điều khoản hợp đồng kém cỏi thuận lợi, hoặc, nếu họ cảm nhận thấy có một phần trăm của việc khủng hoảng tài chính, họ chỉ dễ dàng là có thể từ chối làm ăn với công ty. trong mọi hoàn cảnh, tai ương của doanh nghiệp sẽ trở nên khó khăn khi người cho vay xem xét các nguy cơ hoạt động phát sinh từ giá cổ phiếu yếu ớt xoàng và đòi hỏi lãi suất cao hơn , điều khiếu nại cho vay ngặt nghèo hơn.
rõ ràng, nếu một doanh nghiệp dễ bị tổn thương tại những khía cạnh, các nhà quản lý có nghĩa vụ không thể bỏ lỡ áp lực thị trường cho hiệu năng ngắn hạn, , cần thực hiện theo mười luật lệ nhưu trên. nhưng thực tế là các điều kiện khắc nghiệt không ứng dụng cho các công ty giao dịch công khai. không nhiều doanh nghiệp tùy thuộc vào sự công bình để tài trợ cho phát triển. hầu hết tạo ra đủ tiền mặt để trả cho nhân viên hàng đầu của họ mà không nhất thiết đến sự ưu đãi công bằng. hầu hết cũng có những người tiêu dùng và nhà sản xuất để đối phó với, và có không hề ít những tổ chức tài chính xếp sau việc kinh doanh của họ.
thế nên, đây là thời gian cho các ban , những CEO để bước lên , nắm nắm thời cơ. Bạn càng làm sớm càng giúp cho doanh nghiệp của mình trở nên một công ty cấp 10, bạn và những cổ đông của bạn càng có khả năng kiếm lời. và thời điểm nào là tốt hơn hiện giờ để cho các nhà đầu tư thể chế thực hiện thay mặt cho các cổ đông và những đối tượng mục tiêu mà họ biểu hiện , khẳng định rằng giá trị cổ đông dài hạn trở thành quy tắc chi phối cho tất cả các doanh nghiệp trong danh mục đầu tư của họ?
Nguồn: http://vietnamreport.net.vn/